TS. Dương Thị Thùy Vân, Giám đốc Trung tâm công nghệ thông tin ứng dụng, Đại học Tôn Đức Thắng là một giảng viên trẻ, từng nhận được nhiều giải thưởng khoa học trong và ngoài nước.
Trở thành Thạc sĩ ở Pháp là một việc vô cùng khó khăn nhưng bà đã làm được ở tuổi 26
Năm 1960, bà trở về Việt Nam và chọn làm việc tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Khi đó, số lượng các nhà toán học có bằng Tiến sĩ tại Việt Nam "có thể đếm trên đầu ngón tay". Trường Đại học Sư phạm Hà Nội chỉ có một Tiến sĩ duy nhất là GS Nguyễn Cảnh Toàn.
Là giảng viên, bà Sính nghĩ bắt buộc phải gắn giảng dạy với nghiên cứu. Coi việc học Tiến sĩ chỉ là một phần của quá trình "tập dượt nghiên cứu", bà vẫn phải tiếp tục học hỏi nhiều vì cho rằng kiến thức mà bà tích lũy được trong 6 năm học ngành toán không đủ để hoàn thiện nghiên cứu. Bà đã tự mày mò học hỏi một cách độc lập, đối mặt với "4 không": không có môi trường khoa học, không có người hướng dẫn, không có tài liệu và không có cộng đồng nghiên cứu toán học để trao đổi và thảo luận.
Năm 1967, khi "thiên tài toán học thế kỷ 20" Alexander Grothendieck (người Pháp) đến Việt Nam để dạy học trong 3 tuần, bà Sính đã tìm gặp ông và xin ông hướng dẫn cho mình làm luận án Tiến sĩ và GS Grothendieck đã đồng ý.
Bà đã dũng cảm tự mình đến gặp Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, đề xuất việc mở một trường ĐH mà không cần nguồn tài trợ từ Nhà nước
Học phí ban đầu chỉ là 10 cân gạo. Nhà trường không thể thu học phí cao hơn vì lo sợ rằng học phí đắt sẽ ngăn cản sinh viên khó khăn tiếp cận với giáo dục. Do đó, trong giai đoạn đầu, trường hoạt động chủ yếu dựa vào nguồn tài chính từ bà Sính cùng với sự quyên góp từ Pháp.
Năm 1994, khi tiến hành tổng kết mô hình thí điểm của trường ĐH dân lập, ĐH Thăng Long đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo đánh giá cao về mặt học thuật. Tuy nhiên, về mặt tài chính, mô hình này không thể tồn tại lâu dài nếu chỉ dựa vào tiền quyên góp để trả lương cho giảng viên. Dù vậy, các vấn đề về tài chính có thể được giải quyết dần, là cơ sở cho việc phát triển của các trường ĐH dân lập như hiện nay.
Người thành lập trường Đại học tư nhân đầu tiên của Việt Nam
Nhận được một lá thư từ GS Bùi Trọng Liễu gửi từ Pháp vào năm 1988, mời 5 nhà khoa học hợp tác thành lập một trường ĐH tư nhân, bà Sính đã nhen nhóm lòng khát khao xây dựng một ngôi trường nhằm khắc phục các hạn chế của các trường ĐH công lập trong bối cảnh thời điểm đó. “Tôi xin mở trường tư thục với hai lý do: giúp giảng viên bớt khổ, có thể sống bằng nghề của mình và thay đổi giáo trình giảng dạy, mang kiến thức du học nước ngoài truyền đạt tới các thế hệ sinh viên”, GS chia sẻ.
Bà đã dũng cảm tự mình đến gặp Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, đề xuất việc mở một trường ĐH mà không cần nguồn tài trợ từ Nhà nước và ông đã đồng ý. Khóa học đầu tiên của ĐH Thăng Long đã thu hút một số lượng sinh viên giỏi, những người chỉ thiếu 1 đến 2 điểm để được vào các trường ĐH danh tiếng như Bách Khoa, Sư phạm,...
Nữ Giáo sư toán học đầu tiên của Việt Nam
Bà Sính sinh năm 1933 tại làng Cót, Từ Liêm, Hà Nội (hiện là phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy). Sau khi tốt nghiệp bằng Tú tài 1 tại Trường THPT Chu Văn An, bà sang Pháp du học tại Đại học Toulouse.
Trở thành Thạc sĩ ở Pháp là một việc vô cùng khó khăn nhưng bà đã làm được ở tuổi 26. Mặc dù có cơ hội phát triển sự nghiệp ở Pháp, bà vẫn tự nguyện rời bỏ cuộc sống ở phương Tây để quay về quê hương, ngay trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ đang diễn ra khốc liệt.
Bà Sính (ngoài cùng bên trái) và người thầy hướng dẫn làm luận án tiến sĩ (ở giữa)
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ ở giai đoạn căng thẳng nhất, bà Sính đảm nhận vai trò trưởng bộ môn Đại số. Bà phải đồng thời dìu dắt, bổ sung kiến thức và hỗ trợ sinh viên trong việc phát triển năng lực và tự mày mò để hoàn thành luận án Tiến sĩ của mình.
Năm 1972, trong khi máy bay B-52 của Mỹ ném bom xuống Hà Nội, bà Sính đang dẫn các sinh viên đi thực tập tại trường phổ thông Phú Xuyên B. Trong những đêm ấy, máy bay gầm rít khủng khiếp mỗi đêm rồi tiếng bom nổ liên tiếp, bà vẫn ngồi làm việc vì chỉ buổi tối mới có thời gian cho nghiên cứu.
Trong suốt 5 năm thực hiện luận án Tiến sĩ (từ 1967-1972), hai thầy trò chỉ giao tiếp với nhau qua 5 lá thư, mỗi lá thư cách nhau ít nhất 8 tháng. Ngoài việc trao đổi kiến thức, GS Grothendieck từng nhấn mạnh với bà Sính rằng "nếu không làm được bài toán khả nghịch thì bỏ đó, không cần làm nữa". Tuy nhiên, bà Sính đã không từ bỏ. Trong bức thư tiếp theo, bà cho hay "đã thành công đảo ngược các vật thể". Ở trong lá thư cuối cùng, bà thông báo rằng dàn bài luận án Tiến sĩ của mình đã hoàn thành.
GS toán học đầu tiên của Việt Nam trên trang bìa Báo Phụ nữ Việt Nam
Sau khi hoàn thành luận án, bà Sính muốn sang Pháp ngay để bảo vệ. Tuy nhiên, nhiều người phản đối vì lo ngại rằng bà có thể không trở về nữa. Cho đến năm 1975, ý kiến phản đối vẫn còn, cho đến khi bà Hà Thị Quế, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam vào thời điểm đó, đã thuyết phục và giúp bà thực hiện ước nguyện.
Trong tháng 5/1975, bà Sính đến Pháp để bảo vệ luận án Tiến sĩ của mình. Thông thường, các luận án được đánh máy và in thành sách. Người làm luận án thường nhận được sự hỗ trợ từ cơ quan trao học bổng hoặc từ trường đại học mà họ làm việc. Tuy nhiên, bà Sính không nhận được sự hỗ trợ từ bất kỳ tổ chức nào. Nhưng nhờ vào vị thế của GS Grothendieck, luận án viết tay của bà đã được chấp nhận. Đây là luận án Tiến sĩ viết tay duy nhất được bảo vệ tại Pháp và có thể là trên thế giới.
Bà Hoàng Xuân Sính trong bức ảnh chụp cùng gia đình ở tuổi 90
Do truyền thống của gia đình tri thức, nên các con cháu của bà Sính đều chọn con đường giảng dạy và cống hiến cho sự phát triển của khoa học và giáo dục. Hiện nay, trong gia đình, ngoài bà Sính là GS, con dâu của bà là Trần Thị Ngọc Lan cũng là nữ PGS - TS đầu tiên trong lĩnh vực thanh nhạc, đã để lại nhiều dấu ấn quan trọng cho ngành âm nhạc của đất nước. Mặc dù không có kiến thức chuyên sâu về âm nhạc, nhưng GS Sính luôn đánh giá cao tinh thần tự học và sự nghiên cứu không ngừng của bà Lan.
Người đỗ hai bằng tiến sĩ vào năm 23 tuổi, người là tiến sĩ khoa học đầu tiên của Việt Nam, người là nhà Toán học đầu tiên của Việt Nam có công trình ở tầm quốc tế...
Báo chí đã đăng tải những lời ca ngợi các tiến sĩ "Tây học" đầu tiên này như: “Ông còn trẻ tuổi, những người tài giỏi không phải đợi tuổi mới lộ ra. Ông học trường đại học mấy năm nay đều đứng đầu cả, ông học tập sắc sảo một cách lạ thường; nay bài luận văn Tiến sĩ được đem trình Hội đồng thật là một kết quả mĩ mãn của công phu học tập bấy lâu. Hội đồng phải phục cái tài học rộng, chí khí cao thượng của ông. Bài luận văn của ông là một kiệt tác về luật học, một kiệt tác vừa về luật học vừa về văn học nữa...".
Hay “Hội đồng, sau khi nghe bài luận thuyết của cô, đồng thanh ngợi khen cô và nhận cho cô được lấy bằng tiến sỹ vào ưu hạng. Cô lại còn được khen về phương diện sư phạm nữa. Công chúng đến xem kỳ thi ấy đều tâm phục cái tài khoa học của một cô gái Việt Nam...".
Theo nhiều nhà khoa học, bà Hoàng Thị Nga không chỉ là nữ tiến sĩ “Tây học” đầu tiên mà còn là tiến sĩ ngành khoa học cơ bản đầu tiên của Việt Nam. Bà đỗ tiến sĩ ngành gì?
Đáp án: Trên Tạp chí Khoa học số 97, ra ngày 1.7.1935 có đăng bài báo có tựa đề “Thật là vẻ vang cho đàn bà nước Nam: Cô Hoàng Thị Nga mới đỗ tiến sỹ về khoa học vật lý”. Theo bài báo trên, TS Hoàng Thị Nga quê ở làng Đông Ngạc, tỉnh Hà Đông. Thân phụ của bà là quan tuần phủ Hoàng Huân Trung. Anh em của bà có nhiều người là trí thức “Tây học”, chẳng hạn như ông Hoàng Cơ Nghị, cử nhân khoa vật lý học, giáo sư trường Trung học Bảo hộ; hoặc ông Hoàng Cơ Bình, thời điểm đó (năm 1935) đang học ở bên Pháp về y khoa (ngành bác sĩ). Bà sinh năm 1903, từng học trường con gái (thời đó ở phố Hàng Trống), sau học trường sư phạm (ở phố Hàng Bài). Sau khi tốt nghiệp sư phạm, bà từng dạy học ở Đáp Cầu. Sau khi đỗ tú tài phần thứ nhất bên ta, bà sang Pháp học tú tài phần hai rồi vào học tại Viện Khoa học (Faculté des Sciences) ở Paris. Sau khi đỗ cử nhân về khoa học, bà học tiến sĩ và bảo vệ luận án tiến sĩ vào ngày 19.3.1935. Bài báo viết: “Hội đồng, sau khi nghe bài luận thuyết của cô, đồng thanh ngợi khen cô và nhận cho cô được lấy bằng tiến sỹ vào ưu hạng".
Ông là một luật sư, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu văn học. Năm 1932, khi mới 23 tuổi, ông đỗ liên tiếp hai bằng Tiến sĩ Luật học và Văn học tại Pháp, được khen ngợi là một tài năng hiếm có. Ông là ai?
Đáp án: Năm 1927, sau khi đỗ Tú tài loại ưu, Nguyễn Mạnh Tường sang Pháp du học tại Trường Đại học Montpellier. Năm 1932 Nguyễn Mạnh Tường đỗ hai bằng Tiến sĩ: ngày 28/5/1932 ông bảo vệ xuất sắc luận án Tiến sĩ Luật Khoa: “Cá nhân trong xã hội cổ nước Nam. Tổng luận về luật nhà Lê”. Khó ai tin nổi rằng tháng 7 cùng năm, ông lại bảo vệ luận án tiến sĩ Văn chương “Luận án giá trị Kịch Alfret de Musset”, kèm theo một bản phụ lục rất giá trị “Nước An Nam trong văn học Pháp của Jules Boissière”. Nguyễn Mạnh Tường trở thành một hiện tượng độc nhất vô nhị trong lịch sử khoa cử hai nước Việt – Pháp.
Ai được xem là Tiến sĩ Khoa học toán học đầu tiên của Việt Nam?
Đáp án: Lê Văn Thiêm (1918-1991) là Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học toán học đầu tiên của Việt Nam, một trong số các nhà khoa học tiêu biểu nhất của Việt Nam trong thế kỷ 20. Ông nghiên cứu chủ yếu về lý thuyết các hàm phân hình, diện Riemann và một số vấn đề về toán học ứng dụng. Ông là người Việt Nam đầu tiên bảo vệ thành công luận án tiến sĩ A ở Đức (1944), rồi luận án tiến sĩ quốc gia về toán ở Pháp (1948), và cũng là người Việt Nam đầu tiên được mời làm giáo sư toán học và cơ học tại Đại học Zurich (Thuỵ Sĩ, 1949).
Nhà toán học Lê Văn Thiêm là người đầu tiên đưa ra lời giải cho một bài toán khó đã tồn tại nhiều năm. Đó là bài toán nào?
A. Bài toán ngược của lý thuyết Nevanlina
Đáp án: Lê Văn Thiêm là người đầu tiên đưa ra lời giải cho một bài toán khó đã tồn tại nhiều năm của "Bài toán ngược của lý thuyết Nevanlina". Công trình của ông không chỉ được quan tâm vì đã chứng minh sự tồn tại nghiệm của bài toán đó, mà còn vì ông đã đưa ra một phương pháp hoàn toàn mới để nghiên cứu vấn đề đặt ra. Trong những công trình khoa học và sách chuyên khảo gần đây trên thế giới, người ta vẫn còn nhắc tới công trình của ông viết cách đây hơn nửa thế kỷ và nhắc đến ông như là một trong những người có công đầu trong việc xây dựng lý thuyết về Toán học.
B. Giả thuyết Goldbach tam nguyên
C. Giả thuyết của Birch và Swinnerton-Dyer
Năm 1934, với luận án chính "Hát đối đáp nam nữ thanh niên ở An Nam" và luận án phụ "Nhập môn nghiên cứu nhà sàn ở Đông Nam Á", Nguyễn Văn Huyên là người Việt Nam đầu tiên bảo vệ thành công luận án tiến sĩ văn khoa tại trường đại học nào?
A. Đại học Tổng hợp Montpellier
Đáp án: Nguyễn Văn Huyên là người Việt Nam đầu tiên bảo vệ thành công luận án tiến sĩ văn khoa tại trường đại học Sorbonne. Hai bản luận án này được xếp loại xuất sắc, được in thành sách và xuất bản ở Pháp với sự hoan nghênh của giới chuyên môn Pháp, Đức, Hà Lan...
Buổi chiếu phim đầu tiên ở Việt Nam diễn ra tại đâu? Ai là người Việt đầu tiên được chụp ảnh chân dung?... Bạn có biết những điều này?
Các triều đại phong kiến nước ta đều không cho nữ giới được học hành, thi cử. Tuy vậy, sách vở cũng đã ghi lại chuyện một phụ nữ đã cải trang thành nam giới để đến trường học hành, thi cử và đỗ đại khoa. Đó là trường hợp Nguyễn Thị Duệ (1574-?) quê xã An Lạc, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương ngày nay.Bốn tuổi biết viết vănBà còn có tên khác là Nguyễn Thị Ngọc Toàn, Nguyễn Thị Du. Quê bà vốn là đất học, trước đó đã có nhiều người đỗ đạt cao, tiếng tăm lừng lẫy như các Trạng nguyên Vũ Dương, Trần Sùng Dĩnh thời Hồng Đức thế kỷ XV, Lê Nại thời Đoan Khánh đầu thế kỷ XVI. Ngay xã của bà cũng có những tấm gương học hành như Nguyễn Phong (1560-1643), Nguyễn Lệ (1543-1619) đỗ tiến sĩ khoa Mậu Thìn, đời Sùng Khang (Mạc Mậu Hợp) (1568). Hoặc Nguyễn Doãn Khâm (1530-1592) lúc đầu chỉ là đấu vật, rồi yêu thích văn chương đã đi học và thi đỗ hoàng giáp khoa Kỷ Mùi, đời Quang Bảo (Mạc Phúc Nguyên) (1550-?).
Linh vị Nguyễn Thị Duệ được thờ cạnh Khổng Tử trong hậu cung của Văn miếu Mao Điền (Cẩm Điền, Cẩm Giàng, Hải Dương).
Thuở nhỏ cô gái Nguyễn Thị Duệ tỏ ra rất sáng dạ. Lên 4 tuổi đã biết viết văn. Có cậu ấm trong vùng đến nghẹo, bà đã đọc châm 2 câu thơ: “ Xá chi vàng đá hỗn hào/ Thoảng đem cánh phượng bay cao thạch thành”. Nghe bà đọc, cậu ấm ta phải đánh bài chuồn. Các tâm gương người cùng quê hương thi cử đỗ đạt cao cũng đã kích thích hứng thú học tập của bà. Song thời đó cuộc nội chiến Trịnh – Mạc ở vào giai đoạn quyết liệt. Cuối năm 1592, Trịnh Tùng đem quân đánh vùng Hạ Hồng, Nam Sách, Kinh Môn, quê hương của Nguyễn Thị Duệ. Vua nhà Mạc là Mạc Mậu Hợp bị bắt. Mấy năm tiếp sau đó, vùng Hải Dương vừa bị chiến tranh cướp phá liên miên, lại vừa bị mất mùa đói kém, người chết như rạ…Nhà Mạc bị quân Trịnh đánh bại, phải chạy lên lập nghiệp ở Cao Bằng.
Cải trang thành nam để đi thiNguyễn Thị Duệ mới ở độ tuổi 20 cũng theo cha lên Cao Bằng tránh loạn. Ở đây bà được học với một ông thầy họ Cao và cải trang thành nam giới, nên người ta thường gọi là anh Du. Khi nhà Mạc mở khoa thi hội, bà cùng với thấy học dự thi và đã đỗ đầu trong số tiến sĩ trúng cách. Khoa thi hội này không thấy chép trong các sách viết về thi cử của nước ta. Chỉ có sách “Chí Linh phong vật chí” nói đến và ghi là năm Mậu Thìn (1568). Thời gian trên có lẽ không chính xác, vì năm này Mạc Mậu Hợp còn ở Thăng Long, chưa xảy ra các sự kiện mà Mạc phải chạy lên Cao Bằng. Theo chúng tôi có lẽ vào năm Giáp Thìn (1604) thì đúng hơn. Lúc này Nguyễn Thị Duệ đã ở tuổi 30.
Trong buổi tiệc mừng tân khoa, vua Mạc nhận ra ông nghè thủ khoa có dáng vẻ yêu kiều, thanh tú giống nữ giới. Sực nhớ đến giấc mộng đêm trước, thấy người đỗ tiến sĩ là nữ, nhà vua bèn gặng hỏi và bà Nguyễn Thị Duệ đành phải thú thực. Vua Mạc chẳng những không khép tội mạo danh theo quy chế thi cử thời phong kiến mà còn giữ nguyên học vị của bà và phong là “Diệu Huyền Sao Sa” nghĩa chữ là “Tinh phi” (sao sa) rồi đưa vào cung. Bà được vua sủng ái, giao cho việc dạy bảo các phi tần.Thời gian này họ Mạc ở Cao Bằng thỉnh thoảng cũng đem quân về xuôi đánh phá một số vùng, ví như năm 1601, Mạc Kính Cung chiếm cứ Hải Dương. Sau đó bị Bình An Vương, Trịnh Tùng đánh bại, lại chạy lên Cao Bằng. Khoảng năm 1623. Mạc Kính Khoan lại kéo quân về tới tận Gia Lâm sát kinh đô Thăng Long. Trịnh Cán cho đại quân chặn đánh, khiến quân Mạc đại bại, Kính Khoan may mắn chạy thoát. Năm 1625 Trịnh Tráng sai con là Trịnh Kiều đem quân lên Cao Bằng đánh họ Mạc, bắt giết Mạc Kính Cung. Mạc Kính Khoan chạy sang Tàu, sau trở về dâng biểu xin hàng, được phong làm Thái úy thống Quốc Công, lại cho giữ đất Cao Bằng.Có lẽ khoảng thời gian 1623, nhân chuyến Mạc Kính Khoan kéo quân về xuôi, Nguyễn Thị Duệ đã theo về thăm quê. Quân Mạc bị đánh bại tán loạn, về quê thì e ngại, mà trở lên Cao Bằng đường đã tắc nghẽn, nên Nguyễn Thị Duệ đành cải trang, xin vào tu trong một ngôi chùa.Trở thành Lễ phi trong phủ chúaKhi quân Trịnh đánh đuổi quân Mạc, kéo đến ngôi chùa này thì phát hiện được Nguyễn Thị Duệ. Tướng Trịnh bấy giờ là Nguyễn Quý Nhạ, vốn cùng quê với bà Duệ, lại quen nhau từ lúc thiếu thời, nên đem lòng quý mến, đã thảo một tờ khải dâng lên chúa Trịnh Tráng tâu trình về việc nữ sĩ Nguyễn Thị Duệ. Chúa Trịnh Tráng đọc tờ khải cũng thấy lạ, bèn truyền đòi đưa Nguyễn Thị Duệ về kinh. Qua hỏi chuyện, chúa nhận thấy bà Duệ có học thức uyên thâm, thấu đạt nhiều sách vở, tư cách đoan trang, bèn phong cho bà giữ chức Lễ Phi, làm công việc dạy dỗ các phi tần bên phủ chúa và cung vua.Cũng trong thời này, Nguyễn Thị Duệ được gần gũi với hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc, một bà hoàng nổi danh chữ nghĩa đương thời. Nguyên bà hoàng hậu họ Trịnh này là con chúa Trịnh Tráng, đã lấy Quận Công Lê Trụ, bác họ của vua Lê Thần Tông và sinh hạ được bốn con. Lê Trụ bị tội, Trịnh Tráng đem bà gả cho vua. Lúc đầu vua miến cưỡng lấy bà, nên khi nghe mấy viên quan can ngăn, đành nói: Xong việc thì thôi, lấy gượng vậy! Nhưng về sau do quý trọng tài đức, nhà vua đã lập bà làm hoàng hậu. Trịnh Thị Ngọc Trúc là người thích văn chương, chữ nghĩa. Bởi vậy khi gặp tiến sĩ Nguyễn Thị Duệ thì hai người trở nên thân thiết, tri kỷ. Hoàng hậu họ Trịnh đã tiến cử bà Duệ với vua Lê Thần Tông. Nhà vua qua những lần hỏi han trò chuyện, đã thấy bà là một phụ nữ tài năng, đức độ nên phong cho bà chức Chiêu Nghi, đứng trên các cung tần. Bà lấy hiệu là Nghi Ái Quan, được nhà vua ưu ái, cho bày tỏ ý kiến về một số văn bản của triều đình, cũng như nhận xét, đánh giá bài làm của thí sinh các khoa thi hội, thi đình.Sách chép khoa thi hội năm Tân Mùi niện hiệu Đức Long (1631) có một thí sinh đề ra 12 mục, nhưng bài thi chỉ làm 4 mục, song văn bút rất xuất sắc, độc đáo. Các khảo quan lấy làm lạ chưa dám quyết, tâu trình lên vua. Nhà vua giao cho số đỗ đại khoa trong triều xem lại bài.Bà Nghi Ái Quan cũng được tham dự. Bà đọc đi đọc lại bài văn, thấy quả thí sinh này là người học rộng, có tài, bèn nhất trí với các quan tâu vua lấy đỗ nhất. Đến khí khớp phách, bà mới hay đó là bài của Nguyễn Minh Triết, cậu em họ mình.Trong thời gian ở cung, Nguyễn Thị Duệ thường đi lễ chùa với Hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc và có dịp gặp gỡ, đàm đạo văn chương đạo lý với một số danh nho tiết tháo đương thời như các thám hoa Nguyễn Đăng Cảo, Giang Văn Minh, Khương Thế Hiển. Bà luôn hướng về quê hương, lập ra “ Văn Hội” ở huyện Chí Linh cho học trò vùng này đến ôn luyện văn chương sách vở. Bà ra đề gửi cho họ làm, rồi đóng hòm trở về kinh để cho bà chấm, chữa…
Văn miếu Mao Điền nơi thờ Nguyễn Thị Duệ.
Tuy nhiên đứng trước thời cuộc bấy giờ, bà Nguyễn Thị Duệ đã mang nặng nỗi niềm suy tư, trăn trở. Nhà Mạc ở Cao Bằng thì đã đến ngày tàn. Vua Lê chỉ ngồi làm vì, không có quyền hành, thực lực. Sau nội chiến Trịnh - Mạc lại tiếp đến Trịnh - Nguyễn khiến đất nước, dân tình khốn khổ. Càng nghĩ ngợi bà Duệ thêm chán ngán nên quyết xin rời cung trở về quê. Nhà vua và chúa Trịnh Tráng thấy không khuyên giữ được dành để cho bà về và cấp cho làng Kiết Đặc (An Lạc) quê bà ruộng lộc điền, miễn sưu thuế phu phen tạp dịch, để bà có nơi tĩnh dưỡng. Sống lâu, không rõ năm mất
Nguyễn Thị Duệ sống lâu nhưng mất năm nào không rõ. Theo sách ghi lại thì xưa kia tại làng Kiết Đặc có chùa thờ bà, bia mộ và ngôi tháp “Tinh phicổ pháp” khắc mười chữ hán: “Lễ sư sinh thông tuệ. Nhất kính chiếu tam Vương” (là Lễ sư sinh thời rất thông tuệ, một cái nhìn thấu cả ba vua). Ngôi tháp này được xếp một trong “Chí Linh bát cổ” ( 8 vật cổ của Chí Linh). Ngôi chùa có đôi câu đối:“Giáp khoa tiên chiếm Cao Bình bảngĐại bút do truyền Bát Cổ bi”Nghĩa là:“Khoa giáp đứng đầu bảng ở Cao BằngVăn Chương lừng danh để lại ở bia Bát Cổ”Văn bia “Chí Linh Bát cổ”, khắc dựng năm Gia Long nguyên niên (1802), còn bài thơ sau ca ngợi tài danh nữ tiến sĩ Nguyễn Thị Duệ.“Ngọc thủ chiết cao chíKính nhan lưu cổ thápTùng cổ thử giang sơnChí kim kỷ mình giápHoa thảo tự tạ khaiNgư tiều tương vấn đápSơn sắc chính thanh thươngThu thanh hà tiêu táp”Tạm dịch:“Tay ngọc bẻ cành caoMặt gương in cổ thápTừ xưa núi sông nàyĐến nay còn man mácHoa cỏ tự nở tànNgư tiều cũng hỏi đápSắc núi vẫn trong xanhTiếng thu sao xào xạc?”Nhưng hiện nay, theo một số nhà nghiên cứu cho biết, những di vật trên không còn, nên những chuyện về vị nữ tiến sĩ duy nhất của đất nước ta thời phong kiến, chỉ là sự chắp nhặt một số tư liệu còn lại trong sách vở là những giai thoại mà thôi!
Theo Khoa học & Đời sống Online