Nhật Bản là một quốc gia đông dân, với mật độ dân số trung bình khoảng 228 người/km2. Tổng số dân năm 2020 là 126,2 triệu người, với tỉ lệ tăng dân số thấp và có xu hướng giảm.
Ảnh hưởng của già hóa dân số ở Nhật:
Hiện tượng già hóa dân số đang gây ra những vấn đề lớn về tăng trưởng kinh tế và chế độ phúc lợi xã hội.
Về tăng trưởng kinh tế, lực lượng lao động giảm do sự gia tăng của già hóa và giảm tỉ lệ sinh. Điều này dẫn tới sự trì trệ của tăng trưởng kinh tế.
Về chế độ phúc lợi xã hội, các chế độ như tiền lương hưu hay điều dưỡng chịu sự tác động của lực lượng lao động. Dân số lao động giảm, số lượng người già tăng, kết quả là tỉ lệ phần trăm số người lao động trong tổng dân số giảm. Số người chăm sóc cho một người cao tuổi cũng giảm, dẫn tới sự sụp đổ trong những phúc lợi xã hội liên quan tới y tế và điều dưỡng.
Các vấn đề này có thể được giải quyết bằng các giải pháp như mở cửa để các bạn đi du học và xuất khẩu lao động Nhật Bản với thị trường Việt Nam nhiều hơn.
Vị trí địa lý và lãnh thổ của Nhật Bản:
Nhật Bản là một quốc gia đông dân nhất thế giới và nằm ở phía đông bắc của khu vực Châu Á, tiếp giáp với Thái Bình Dương ở phía đông nam, biển Nhật Bản ở phía tây và biển Ôkhốt ở phía bắc. Với lãnh thổ có hình dạng vòng cung gồm bốn đảo lớn (lớn nhất là Hôn – su) và hàng nghìn đảo nhỏ, Nhật Bản là một quốc gia đa dạng về địa lý và tự nhiên.
Sự đa dạng và bốc đồng của địa hình đã mở ra nhiều cơ hội phát triển cho Nhật Bản trong lĩnh vực kinh tế. Với vị trí đặc biệt là một quốc đảo bốn xung quanh tiếp giáp với biển, Nhật Bản rất thuận lợi để phát triển tổng hợp kinh tế biển. Bên cạnh đó, điều kiện địa lý cũng là một lợi thế để Nhật Bản tiếp cận với các quốc gia khác trong khu vực và trên toàn thế giới thông qua giao thông vận tải đường biển.
Nhật Bản được chia thành 47 tỉnh và thành phố, với mỗi địa phương có những đặc điểm riêng. Ví dụ như đảo Hokkaido nằm ở phía bắc và có khí hậu lạnh, trong khi đó, đảo Okinawa ở phía nam và có khí hậu nóng ẩm. Mỗi tỉnh thành của Nhật Bản đều có nền kinh tế phát triển và đóng góp vào sự phát triển của đất nước.
Tuy nhiên, việc nằm trong vài đai động đất, núi lửa trên thế giới cũng đồng nghĩa với việc Nhật Bản phải đối mặt với nhiều thách thức từ thiên nhiên. Hàng năm, quốc gia này phải hứng chịu rất nhiều hậu quả nặng nề do thiên tai như động đất, núi lửa, sóng thần và các hiện tượng khác. Tuy nhiên, với sự sáng tạo và nỗ lực của con người, Nhật Bản vẫn đang tiếp tục phát triển và nâng cao đời sống của người dân.
Nhật Bản còn nổi tiếng với văn hóa đa dạng và phong phú của mình. Nơi đây là quê hương của nhiều nghệ sĩ tài hoa, từ nhạc sĩ, họa sĩ cho đến các nhà văn. Ngoài ra, Nhật Bản còn có nhiều điểm du lịch nổi tiếng như Tokyo, Kyoto, Osaka, Hokkaido, Okinawa,.. với kiến trúc độc đáo, ẩm thực đa dạng và bảo tàng lịch sử phong phú.
Nguyên nhân chính và diễn biến tình trạng xã hội già ở Nhật Bản
Tình trạng già hóa dân số đã trở thành một trong những vấn đề lớn nhất mà Nhật Bản đang phải đối mặt. Từ 25 năm trước đến nay, Nhật Bản đã chứng kiến sự gia tăng đáng kể về tỷ lệ người cao tuổi, điều này đã dẫn đến tình trạng già hóa dân số gia tăng. Hiện nay, tỷ lệ người cao tuổi trong xã hội Nhật Bản đã vượt qua ngưỡng 14% vào năm 1995 và đạt mức 23% vào năm 2010, bước vào xã hội siêu già. Năm 2018, tỷ lệ này tiếp tục tăng lên 28.1%, gần 30% tổng dân số.
Có hai nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng này. Thứ nhất, do sự phát triển của y học và thay đổi của cuộc sống, tuổi thọ trung bình ngày càng tăng lên. Năm 2017, tuổi thọ trung bình của nam giới ở Nhật Bản là 81,09 và của nữ giới là 87,26. Cùng với sự gia tăng của lớp dân số trên 65 tuổi, số lượng người tử vong cũng có xu hướng tăng. Tuy nhiên, tỷ lệ tử vong điều chỉnh cơ cấu độ tuổi lại có xu hướng giảm, điều này cho thấy sự tiến bộ của y học và sức khỏe của người cao tuổi đang được cải thiện.
Ngoài ra, một trong những nguyên nhân khác là do sự giảm tỷ lệ sinh tại Nhật Bản. Số lượng trẻ em sinh ra đạt mức cao nhất trong cuộc bùng nổ sinh sản lần thứ hai vào những năm 1970, sau đó có xu hướng giảm. Năm 2019, con số này chỉ đạt 940 nghìn người, tỉ suất sinh thô (số lượng trẻ em sinh ra trong 1000 dân) là 7,6. Năm 2016 là năm đầu tiên số trẻ em sinh ra trong năm giảm xuống dưới 1 triệu trẻ, và tình trạng giảm thiểu dân số này vẫn đang tiếp tục diễn biến.
Ngoài việc giảm tỷ lệ sinh, Nhật Bản cũng đang phải đối mặt với vấn đề về giới tính và kết hôn. Tỷ lệ kết hôn ở Nhật Bản đang giảm, và các chính sách của chính phủ để khuyến khích người dân kết hôn và sinh con chưa đạt hiệu quả như mong đợi. Điều này cũng đóng góp vào tình trạng giảm dân số.
Tình trạng già hóa dân số đang gây ra tác động lớn đến kinh tế và xã hội Nhật Bản. Tuy nhiên, nó cũng đang tạo ra cơ hội cho các ngành kinh tế mới như chăm sóc sức khỏe, du lịch, và các sản phẩm dành cho người già. Để giải quyết vấn đề này, Nhật Bản đã triển khai nhiều chính sách khuyến khích người dân sinh con và tăng cường hỗ trợ cho người cao tuổi, bao gồm cả các chính sách nghỉ hưu và các chương trình hỗ trợ chăm sóc sức khỏe và đời sống.
Tuy nhiên, giải quyết vấn đề này vẫn còn đầy thách thức. Ví dụ, tình trạng già hóa dân số đang tạo ra áp lực lớn đến các hệ thống chăm sóc sức khỏe và hỗ trợ người già. Nhật Bản cũng đang phải đối mặt với những thách thức kinh tế do tình trạng này gây ra, bao gồm việc giảm sản lượng lao động và nhu cầu tài chính của người cao tuổi.
Khí hậu của Nhật Bản và ảnh hưởng đến đời sống và kinh tế:
Nhật Bản là một quốc gia có khí hậu đa dạng với nhiều quần đảo trải dài, từ vùng bắc đến vùng nam. Điều này dẫn đến sự phân hóa về khí hậu giữa các vùng miền trong đất nước này.
Ở phía bắc, khí hậu của Nhật Bản thuộc dạng ôn đới với mùa đông kéo dài và có tuyết rơi. Vì vậy, ở các vùng miền bắc Nhật Bản, người dân phải đối mặt với những khó khăn về đi lại, điều hòa không khí và cung cấp năng lượng trong mùa đông.
Trong khi đó, ở phía nam của Nhật Bản, khí hậu cận nhiệt và ẩm ướt hơn, thường có mưa to và bão. Điều này có ảnh hưởng đến việc sản xuất nông nghiệp và kinh tế của Nhật Bản. Ví dụ, cơn bão Jebi năm 2018 là một trong những cơn bão nhiệt đới mạnh nhất đã đổ bộ vào Nhật Bản, gây ra thiệt hại nặng nề ở vùng Kansai và gây khó khăn cho đời sống người dân.
Tuy nhiên, khí hậu phân hóa cũng đã tạo ra sự đa dạng trong cơ cấu cây trồng và vật nuôi, đóng góp cho việc phát triển ngành nông nghiệp tại Nhật Bản. Khí hậu của Nhật Bản cũng ảnh hưởng đến các hoạt động khác như du lịch và giao thông vận tải.
Việc ứng phó với khí hậu đang trở thành một trong những vấn đề cấp bách nhất trên thế giới. Khí hậu ảnh hưởng đến đời sống của con người, động thực vật, động vật và môi trường tự nhiên. Tại Nhật Bản, chính phủ đang dành sự quan tâm đặc biệt đến việc giảm thiểu tác động của khí hậu đến đời sống và kinh tế.
Nhật Bản đã đưa ra những biện pháp nhằm giảm thiểu tác động của khí hậu, bao gồm phát triển năng lượng tái tạo và giảm thiểu khí thải. Ngoài ra, Nhật Bản còn đầu tư vào các công nghệ tiên tiến để giảm thiểu tác động của khí hậu đến đời sống và kinh tế.
Tuy nhiên, để đạt được một kết quả tốt hơn, không chỉ chính phủ mà cả cộng đồng mỗi người dân Nhật Bản đều cần phải tham gia vào việc giảm thiểu tác động của khí hậu. Một số hành động như tiết kiệm năng lượng, sử dụng phương tiện giao thông công cộng hay các sản phẩm tái chế cũng sẽ giúp giảm thiểu tác động của khí hậu.
Việc nghiên cứu và quản lý khí hậu cũng là rất quan trọng để bảo vệ đời sống của người dân và phát triển kinh tế bền vững tại Nhật Bản. Chính phủ Nhật Bản đang đầu tư vào nghiên cứu về khí hậu và đưa ra các chính sách nhằm giảm thiểu tác động của khí hậu.
Với sự phát triển nhanh chóng của kinh tế và công nghệ, việc giảm thiểu tác động của khí hậu đến đời sống và kinh tế ngày càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Nhật Bản đang dẫn đầu trong việc ứng phó với khí hậu và sử dụng công nghệ tiên tiến để giảm thiểu tác động của khí hậu đến đời sống và kinh tế.
(ĐCSVN) - Nhật Bản là một trong những quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất trên thế giới. Điều này đồng nghĩa với việc thiếu hụt nguồn nhân lực trong khi lực lượng lao động sẽ phải gồng mình để gánh vác hệ thống thuế và an sinh xã hội.
Khi xã hội đang nhanh chóng “già” đi...
Số liệu được Bộ Thông tin và Nội vụ Nhật Bản đưa ra ngày 17/4 cho thấy, tổng dân số Nhật Bản tính đến ngày 1/10/2011 (bao gồm cả người nước ngoài) là 127,799 triệu người, giảm 0,2% so với một năm trước đó. Với mức suy giảm 259 nghìn người trong năm 2011, đây là mức suy giảm lớn nhất của dân số Nhật Bản kể từ năm 1950 trở lại đây.
Số người già từ 65 tuổi trở lên ở Nhật Bản sẽ chiếm gần 40% tổng dân số vào năm 2060 Ảnh: Foreign PolicyTheo ước tính, số người già từ 65 tuổi trở lên ở Nhật Bản sẽ chiếm gần 40% tổng dân số vào năm 2060, tăng từ mức 23% vào năm 2010. Đây là một con số thực sự ấn tượng về tình trạng “già hóa” ở đất nước Mặt trời mọc.
Số người già từ 65 tuổi trở lên ở Nhật Bản sẽ chiếm gần 40% tổng dân số vào năm 2060 Ảnh: Foreign Policy
Trong năm tài chính kết thúc vào ngày 31/3, những người già Nhật Bản đã chi tiêu khoảng 109 nghìn tỷ yên (tương đương 1,4 nghìn tỷ USD), bằng với 44% tổng tiêu dùng nước này. Một thống kê khác cho thấy, năm 2011, lần đầu tiên số lượng tã giấy người lớn mà công ty Unicharm Corp bán ra ở Nhật Bản đã vượt quá số lượng tã trẻ em. Tại nhiều siêu thị, khách hàng có thể cảm nhận rõ ràng sự già hóa dân số của Nhật Bản: các xe đẩy hàng được thiết kế có trọng lượng nhẹ hơn.
Thực tế tại Nhật Bản cho thấy, các công ty đang chạy đua để tạo ra doanh số lớn hơn từ người tiêu dùng hơn 60 tuổi. Và Nhật Bản đang trở thành hình mẫu cho xu hướng một nền kinh tế bán lẻ hiện đại chuyển dịch từ các khách hàng truyền thống là người trẻ sang người già.
Nhật Bản dự báo, dân số nước này sẽ giảm đi 30% vào năm 2060 nếu tỷ lệ sinh không tăng. Tính đến năm 2010, dân số Nhật Bản là 128 triệu người. Vào năm 2060, dân số Nhật Bản dự kiến sẽ chỉ còn 87 triệu người. Trong đó, số người trong lực lượng lao động (trong độ tuổi từ 15 đến 65) sẽ giảm, chiếm khoảng một nửa tổng dân số.
Tỷ lệ sinh con ở phụ nữ tính vào năm 2060 là 1,35 (số con được sinh ra bởi mỗi phụ nữ) giảm so với mức 1,39 năm 2010. Các con số này đều thấp hơn mức 2 con được sinh ra bởi mỗi phụ nữ để tránh suy giảm dân số.
Các chuyên gia cho biết, dân số Nhật Bản sẽ giảm đi khoảng 1 triệu người mỗi năm trong vài thập kỷ tới và nước này cần xem xét lại hệ thống thuế và các chính sách phúc lợi xã hội để đảm bảo an sinh xã hội.
Dân số Nhật Bản giảm trong những năm gần đây do nhiều người trẻ không muốn lập gia đình vì xem đó là gánh nặng đối với cuộc sống và sự nghiệp của họ. Nền kinh tế trì trệ cũng khiến các cặp vợ chồng trẻ không muốn sinh con.
Từ những điều trên có thể thấy, Nhật Bản là một trong những quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất trên thế giới và tỷ lệ sinh ở mức thấp nhất.
Dân số già - gánh nặng cho nền kinh tế
Trong bối cảnh số người nghỉ hưu và người già ngày một tăng cao, Chính phủ của Thủ tướng Nhật Bản Yoshihiko Noda tháng 2 vừa qua đã thông qua đề cương cải cách chế độ an sinh xã hội và thuế nhằm dọn đường cho việc đạt mục tiêu chính sách tăng thuế tiêu dùng.
Người già Nhật Bản đã chi tiêu một khoản tiền bằng 44% tổng tiêu dùng cả nước Ảnh: AFP/Getty ImagesChính phủ và Đảng Dân chủ Nhật Bản (DPJ) cầm quyền đã hoàn tất đề cương vào ngày 6/1 nhằm tăng thuế tiêu dùng từ 5% lên 8% vào tháng 4/2014 và 10% vào tháng 10/2015. Trong đề cương chính sách này, chính phủ và DPJ cũng cam kết giảm 80 ghế nghị sĩ tại Hạ viện và cắt giảm lương của công chức. Điều này thể hiện quyết tâm của Thủ tướng Noda trong bối cảnh nợ công dài hạn tại Nhật Bản đang ở mức rất cao.
Người già Nhật Bản đã chi tiêu một khoản tiền bằng 44% tổng tiêu dùng cả nước Ảnh: AFP/Getty Images
Hiện nay, nước Nhật vẫn còn đủ khả năng tài chính để trả nợ công, nhưng với tình trạng dân số bị lão hóa ngày càng nhanh, từ nay cho đến hai, ba năm nữa thì tình hình sẽ khác.
Dân số Nhật Bản đang già hóa với tốc độ không ngờ. Nếu mọi việc cứ diễn ra như hiện nay thì Nhật Bản khó có thể tránh khỏi vỡ nợ. Đó là nguyên nhân vì sao ông Noda quyết định tăng thuế tiêu dùng lên 8% vào năm 2014 và 10% vào tháng 10/2015.
Đối với người cao tuổi, lương hưu là nguồn thu nhập chính. Số liệu do Viện nghiên cứu Dân số và an sinh xã hội quốc gia Nhật Bản năm 2003 cho thấy: Năm 1985, chi phí an sinh xã hội của Nhật Bản là gần 35.780 tỷ yên, chiếm 13,71% thu nhập quốc dân. Trong đó, chi phí về lương hưu cho người cao tuổi chiếm 6,49%. Năm 1995, chi phí an sinh xã hội tăng lên đạt hơn 64.730 tỷ yên, chiếm 17,09% thu nhập quốc gia, chi phí lương hưu chiếm 8,84% trong chi phí an sinh xã hội, tăng 136% so với năm 1985. Năm 2001, Nhật Bản dành 81.400 tỷ yên cho chi phí an sinh xã hội, chiếm 22% trong thu nhập quốc dân. Chi phí về lương hưu chiếm 11,50% trong chi phí an sinh xã hội, tăng 130% so với năm 1995.
Như vậy, qua việc trợ cấp lương hưu cho người cao tuổi, có thể thấy, Chính phủ Nhật Bản đã làm khá tốt vấn đề an sinh xã hội. Song gánh nặng đối với nền kinh tế Nhật Bản là điều ai cũng có thể nhận thấy, nhất là sau thảm họa động đất sóng thần tháng 3/2011 đã làm thiệt hại nặng nề nền kinh tế nước này.
Và đặt ra nhiều thách thức đối với vấn đề nguồn nhân lực
Các chuyên gia cho biết, dân số Nhật Bản sẽ giảm đi khoảng 1 triệu người mỗi năm trong vài thập kỷ tới và nước này cần xem xét lại hệ thống thuế và các chính sách phúc lợi xã hội để bảo đảm an sinh xã hội. Việc điều chỉnh thị trường lao động như tăng tuổi nghỉ hưu, nhằm tăng số lao động lớn tuổi trong lực lượng lao động cũng có ý nghĩa rất quan trọng trước tình trạng già hóa dân số và lực lượng lao động.
Thiếu hụt nguồn nhân lực là một thách thức lớn đối với nền kinh tế Nhật Bản Ảnh: BloombergDân số già, đồng nghĩa với sự thiếu hụt nguồn nhân lực cho thị trường lao động. Hiện nay, chính sách thu hút lao động nước ngoài đang là một ưu tiên của Nhật Bản. Trong thời gian qua, Nhật Bản đã có nhiều hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực nguồn nhân lực. Điều này đã và đang được phát huy có hiệu quả.
Thiếu hụt nguồn nhân lực là một thách thức lớn đối với nền kinh tế Nhật Bản Ảnh: Bloomberg
Theo tổ chức Hợp tác Đào tạo quốc tế Nhật Bản (JITCO), Nhật Bản đang có nhu cầu cao trong việc tiếp nhận lao động nước ngoài, nhất là ngành nông nghiệp. Sau thảm họa động đất và sóng thần tại Nhật năm 2011, tỷ lệ lao động nông nghiệp của Nhật Bản bị giảm mạnh. Theo đánh giá của JITCO, đây là ngành khá phù hợp với lao động Việt Nam. Số lượng lao động được tuyển sẽ không bị giới hạn mà tùy vào khả năng đàm phán của doanh nghiệp phái cử lao động.
Một số liệu khác cho thấy, 10.000 công nhân xuất khẩu lao động của Việt Nam là con số mà Nhật Bản mong muốn được tiếp nhận hàng năm vì tình trạng thiếu hụt nhân công, đặc biệt trong các lĩnh vực chế biến thủy hải sản và nông nghiệp. Số lao động tại Nhật Bản trong hai lĩnh vực vừa kể giảm sút đáng kể do một số đông công nhân Trung Quốc và Philippines rút về nước sau cuộc khủng hoảng thiên tai động đất-sóng thần tại Nhật hồi tháng 3 năm ngoái.
Trước đây, trong chính sách của mình, Nhật Bản không cho phép tiếp nhận lao động nước ngoài trình độ thấp hoặc không có tay nghề vào làm việc. Đối với lao động nước ngoài có tay nghề, lao động kỹ thuật cao, Chính phủ Nhật Bản khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho họ vào làm việc ở Nhật Bản.
Tuy nhiên, lao động phổ thông (lao động không có tay nghề hoặc tay nghề thấp) nước ngoài có thể vào Nhật Bản làm việc theo chương trình tu nghiệp tại Nhật Bản với thời gian không quá 1 năm. Chương trình này được khởi điểm từ những năm cuối thập kỷ 60 của thế kỷ trước. Đến năm 1992, để bù đắp sự thiếu hụt nguồn nhân lực do dân số già hoá và tỷ lệ sinh thấp, Chính phủ Nhật Bản mở rộng thêm chương trình thực tập kỹ thuật với thời gian tối đa là 2 năm, nâng tổng số thời gian tu nghiệp và thực tập kỹ thuật lên tối đa là 3 năm. Lao động nước ngoài tu nghiệp, làm việc tại Nhật Bản chủ yếu trong lĩnh vực cơ khí, dệt may, chế biến lương thực, xây dựng, chế biến hải sản, nông nghiệp và ngư nghiệp. Mục tiêu chính của chương trình này là nhằm chuyển giao công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực cho các nước đang phát triển.
Những năm gần đây, sự thiếu hụt nhân lực trầm trọng do sự già hoá dân số và tỷ lệ sinh thấp đã khiến số lượng tu nghiệp sinh nước ngoài vào Nhật Bản liên tục tăng lên. Bình quân, mỗi năm Nhật Bản tiếp nhận trên 70.000 người vào làm việc với tư cách tu nghiệp sinh.
Số liệu tính đến hết tháng 10/2008, đã có trên 35.000 tu nghiệp sinh Việt Nam được đưa sang tu nghiệp tại các xí nghiệp vừa và nhỏ của Nhật Bản, chủ yếu trong ngành dệt, may công nghiệp, lắp ráp điện tử, gia công cơ khí, chế biến, xây dựng và thuỷ sản.Như vậy, hợp tác với Việt Nam về phát triển nguồn nhân lực trong thời gian qua được coi là một trong những phương thức hữu hiệu đối với Nhật Bản trong bối cảnh thiếu hụt nhân lực do già hóa dân số. Và trong thời gian tới, hai nước sẽ cùng tiếp tục phát huy điều này để cùng khắc phục những điểm yếu trong thị trường lao động của mỗi nước./.